Trong những năm gần đây, cùng với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, ô nhiễm không khí đang là một vấn đề bức xúc đối với môi trường đô thị, công nghiệp và các làng nghề. Trong khi đó, sự gia tăng dân số, gia tăng đột biến của các phương tiện giao thông tại các thành phố, trong khi cơ sở hạ tầng còn yếu kém đã làm cho tình hình ô nhiễm môi trường không khí ngày một trầm trọng hơn.
Ô nhiễm không khí là nỗi ám ảnh của người dân.
Gần 400 tỷ đồng mỗi năm để điều trị các bệnh do ô nhiễm không khí
Mặc dù, Chính phủ và các Bộ, ngành, địa phương, các tổ chức doanh nghiệp và cộng đồng dân cư đã có nhiều nỗ lực giảm thiểu ô nhiễm không khí, nhưng thực tế cũng đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức về quản lý và kiểm soát khí thải, nhất là tại các thành phố lớn như: Hà Nội, TP.Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng, Bình Dương…
Trong đó, Hà Nội và TP.HCM ô nhiễm không khí đang ở mức đáng báo động. Theo Thứ trưởng Bộ TN-MT Nguyễn Tuấn Nhân, ô nhiễm không khí có nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là do nguồn thải từ công nghiệp, các nhà máy năng lượng, đặc biệt là nhiên liệu nhiệt điện. Bên cạnh đó, ô nhiễm không khí cũng phát sinh từ hoạt động giao thông, sản xuất của người dân từ các làng nghề.
Trong bảng Chỉ số xếp hạng môi trường được công bố năm 2014, chất lượng không khí ở Việt Nam xếp thứ 170/178 quốc gia được xếp hạng, thuộc tốp 10 quốc gia có không khí ô nhiễm nhất trên thế giới. Chất lượng không khí tại Việt Nam theo Bảng xếp hạng này thấp hơn nhiều so với một số quốc gia trong khu vực như Singapore, Brunei, Malaysia, Philippines, Indonesia.
Theo số liệu thống kê của Bộ Y tế, trong những năm gần đây, cứ 100.000 dân thì có 4,1% số người mắc các bệnh về phổi; 3,8% số người bị viêm họng và viêm amidan cấp; 3,1% bị viêm phế quản và viêm tiểu phế quản. Mỗi năm nước ta phải đầu tư khoảng 400 tỷ đồng để điều trị những bệnh do ô nhiễm không khí gây ra.
Các nghiên cứu quốc tế cho thấy, khi tiếp xúc với không khí bị ô nhiễm trong thời gian dài, con người có thể bị tác động xấu tới trí nhớ, thậm chí bị bệnh trầm cảm. Ô nhiễm không khí còn gây nên các bệnh đường hô hấp của người lớn, ảnh hưởng lên sự phát triển của thai nhi, là nguyên nhân làm chậm phát triển hệ thần kinh, trí não ở trẻ. Ô nhiễm không khí nói riêng và ô nhiễm môi trường nói chung nếu không được kiểm soát hiệu quả sẽ gây thiệt hại lớn về kinh tế.
Tại Việt Nam, trong những năm gần đây, ô nhiễm không khí là một vấn đề nóng, khá nghiêm trọng. Báo cáo tổng kết tại Hội nghị Môi trường toàn quốc lần thứ IV, diễn ra vào tháng 9/2015, đã chỉ ra: “Trong 10 năm tới, nếu GDP của Việt Nam tăng gấp đôi mà không quan tâm đúng mức đến công tác bảo vệ môi trường thì ô nhiễm môi trường sẽ tăng lên 3 lần, đến năm 2025 có thể gấp 4 - 5 lần. Trung bình GDP cứ tăng 1% thì thiệt hại do ô nhiễm môi trường sẽ làm mất đi 3% GDP”. Có thể thấy vấn đề ô nhiễm không khí đã và đang trở thành mối nguy cơ lớn ảnh hưởng tới phát triển bền vững của nước ta. Mặc dù, đã có rất nhiều nỗ lực trong các hành động giảm thiểu khí ô nhiễm nhưng Việt Nam vẫn còn phải đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức về quản lý và kiểm soát khí thải.
Việt Nam hiện đang là một trong những quốc gia có nguồn không khí bị ô nhiễm khá nghiêm trọng. Các nghiên cứu khoa học cho thấy, khi tiếp xúc với không khí bị ô nhiễm trong thời gian dài sẽ gây lên nhiều bệnh tật về đường hô hấp, hệ thần kinh. Ô nhiễm môi trường nói chung và ô nhiễm không khí nói riêng nếu không được kiểm soát chặt chẽ sẽ gây thiệt hại lớn về kinh tế, xã hội, sức khỏe người dân, đe dọa sự phát triển bền vững.
Quản lý chặt chất lượng không khí
Để tăng cường quản lý chất lượng không khí, ngày 1/6/2016, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 985a/QĐ-TTg phê duyệt “Kế hoạch hành động quốc gia về quản lý chất lượng không khí đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2025”. Mục tiêu của kế hoạch là tăng cường công tác quản lý chất lượng không khí thông qua kiểm soát nguồn phát sinh khí thải và giám sát chất lượng không khí xung quanh, nhằm cải thiện chất lượng môi trường không khí và bảo đảm sức khỏe cộng đồng. Đặc biệt, tập trung kiểm soát tốt các nguồn khí thải, tập trung vào nguồn khí thải công nghiệp, năng lượng lớn và giao thông.
Theo đó, phấn đấu đến năm 2020 đảm bảo 80% các cơ sở sản xuất thép, hóa chất và phân bón hóa học xử lý bụi và các khí thải SO2, NOx, CO đạt Quy chuẩn kỹ thuật môi trường; 90% cơ sở sản xuất nhiệt điện, 80% cơ sở sản xuất xi măng, 70% cơ sở sản xuất thép, hóa chất và phân bón hóa học đầu tư lắp đặt thiết bị quan trắc khí thải tự động với các thông số theo Quy chuẩn kỹ thuật môi trường; kiểm kê khí thải cho 90% cơ sở sản xuất nhiệt điện, 80% cơ sở sản xuất xi măng, 70% cơ sở sản xuất thép, hóa chất và phân bón hóa học…
Kế hoạch cũng xác định hiện trạng ô nhiễm bụi PM 10 và PM 2.5 tại các đô thị đặc biệt và đô thị trực thuộc Trung ương; tăng cường năng lực quốc gia về kiểm soát khí nhà kính, góp phần thực hiện cam kết quốc gia về giảm phát thải khí nhà kính của Việt Nam. Tăng cường giám sát chất lượng không khí xung quanh thông qua việc tăng số lượng trạm quan trắc không khí tại các đô thị; giám sát thường xuyên các thông số theo Quy chuẩn kỹ thuật môi trường và thông số VOCs, HC.
Theo ông Nguyễn Trường Huynh, Phó Trưởng phòng Kiểm soát ô nhiễm không khí và phế liệu – Cục Kiểm soát ô nhiễm (Tổng cục Môi trường), Kế hoạch trên đặt mục tiệu phấn đấu đến năm 2020 đảm bảo 80% các cơ sở sản xuất thép, hóa chất và phân bón hóa học xử lý bụi và các khí thải SO2, NOx, CO đạt Quy chuẩn kỹ thuật môi trường; kiểm kê khí thải cho 90% cơ sở sản xuất nhiệt điện, 80% cơ sở sản xuất xi măng, 70% cơ sở sản xuất thép, hóa chất và phân bón hóa học…
Bên cạnh đó, kế hoạch cũng xác định hiện trạng ô nhiễm bụi PM10 và PM 2.5 (chỉ số về chất lượng không khí, chỉ kích thước và mật độ những hạt trôi nổi trong không khí) tại các đô thị đặc biệt và đô thị trực thuộc Trung ương; tăng cường năng lực quốc gia về kiểm soát khí nhà kính, góp phần thực hiện cam kết quốc gia về phát thải nhà kính của Việt Nam.
Từ góc độ cơ quan được giao kiểm soát môi trường từ hoạt động giao thông vận tải, ông Nguyễn Minh Tiến – Phó Vụ trưởng Vụ Môi trường (Bộ Giao thông vận tải) cho biết: Trong thời gian qua, Bộ đã tăng cường chỉ đạo chủ dự án, nhà đầu tư các công trình giao thông thực hiện nghiêm các biện pháp giảm bụi, khí thải trong thực hiện đầu tư xây dựng phát triển hạ tầng giao thông; ban hành quy chuẩn Việt Nam về khí thải xe cơ giới mức 3 đối với xe mô tô, mức 4 đối với xe ô tô sản xuất, lắp ráp và nhập khẩu mới,… Trong thời gian tới, Bộ sẽ xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định quy định về lộ trình nâng cao mức tiêu chuẩn khí thải đối với xe ô tô đang lưu hành, xe cơ giới nhập khẩu đã qua sử dụng (dự kiến trình năm 2018).
Ngoài ra, Bộ Giao thông vận tải cũng khẳng định sẽ xây dựng Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về tiêu chuẩn khí thải mức 5 đối với xe ô tô sản xuất, lắp ráp và nhập khẩu mới (dự kiến ban hành năm 2020); xây dựng, trình cơ quan có thẩm quyền ban hành chính sách quản lý, phát triển phương tiện giao thông cơ giới lắp động cơ điện…
Các chuyên gia cũng cho rằng, trong thời gian tới, để kiểm soát chặt chẽ môi trường không khí cần ban hành các cơ chế chính sách nhằm khuyến khích các cơ sở sản xuất sử dụng nhiên liệu sạch, đổi mới công nghệ để giảm phát thải khí thải. Có những cơ chế chính sách khuyến khích sử dụng nhiên liệu nén tự nhiên làm nhiên liệu cho các phương tiện giao thông đặc biệt là phương tiện như taxi, xe bus. Trong giai đoạn 2019 – 2020 cần tiếp tục rà soát, sửa đổi bổ sung quy định pháp luật về lắp đặt thiết bị quan trắc tự động liên tục. Đồng thời đẩy mạnh nghiên cứu, xây dựng hệ số phát thải cho các nguồn khí thải phù hợp với điều kiện tự nhiên làm cơ sở cho việc thực hiện kiểm kê khí thải.
Nguồn: moitruong.com.vn
TIN TỨC CHUNG
Leave a reply
Your email address will not be published. Required fields are marked *
Tin tức